Hà Nội trong thời kỳ phong kiến
Hà Nội từng là thủ đô của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt dưới triều Lý, Trần và Lê. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa và kiến trúc Hà Nội.
Thời nhà Lý
Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là người sáng lập Thăng Long và là vị hoàng đế khai sinh triều đại Lý lừng danh trong lịch sử Việt Nam. Ông là một nhà chính trị, quân sự và văn hóa vĩ đại. Tại Thăng Long, ông đã xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, đền chùa và thành luỹ để bảo vệ thành phố. Với hình ảnh của một con rồng bay lên, Thăng Long trở thành biểu tượng cho sự vươn lên của dân tộc và mở đầu cho một giai đoạn phát triển lớn của đất nước. Vì ý nghĩa đó, Lý Thái Tổ đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Sự thăng trầm của đất nước càng làm nổi bật vị trí quan trọng của Thăng Long so với các vùng khác. Trong triều đại Lý, khi định đô ở Thăng Long, quân đội Việt Nam đã hoàn toàn đánh bại quân xâm lược Tống trong lần xâm lược thứ hai. Vào tháng 3 năm 1077, Lý Thường Kiệt - vị anh hùng dân tộc sinh ra tại Thăng Long, đã kết hợp tài năng quân sự, chính trị và ngoại giao của mình để đánh bại quân Tống, đập tan mọi kế hoạch xâm lược Việt Nam của chúng. Từ sau chiến thắng này, trong suốt 200 năm sau đó, quân Tống không còn dám tấn công đất nước ta.
Hình ảnh về vua Lý Thái Tổ, Thái úy Lý Thường Kiệt và Chùa Một Cột:
Thời nhà Trần
Sau sự suy vong của nhà Lý, triều đại Trần được thành lập. Vua Trần Thái Tông lên ngôi vào năm 1226 và vẫn đóng đô ở Thăng Long. Kinh thành Thăng Long được mở rộng hơn trước, và khu vực cư trú của người dân được chia thành 61 phường.
Triều đại nhà Trần đã có những chiến công vang dội: ba lần đánh bại những đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông nổi tiếng, xâm nhập nước ta trong vòng 30 năm (1258 - 1288). Tại Thăng Long, đầu năm 1285 khi quân Nguyên đang tiến sát biên giới, vua Trần Nhân Tông đã triệu tập hội nghị Diên Hồng.
Nhà Trần bị suy vong. Vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã đoạt ngôi của nhà Trần để lập nên triều Hồ. Ông cho xây dựng kinh đô mới ở vùng An Tồn thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá và đặt tên là Tây Đô, được nhân dân gọi là thành nhà Hồ. Trong thời kỳ này, Thăng Long được gọi là Đông Đô.
Lợi dụng tình hình suy yếu của các vương triều trong nước, cuối năm 1406, nhà Minh đã huy động tới 20 vạn quân bộ binh và kỵ binh để xâm lược nước ta. Nhà Hồ đã cố gắng chống đỡ quân xâm lược trong một thời gian ngắn trước khi cha và con của Hồ Quý Ly bị giặc bắt và giết ở Trung Quốc. Năm 1407, quân Minh chiếm Kinh thành Thăng Long và đổi tên thành Đông Quan.
Hình ảnh về hội nghị Diên Hồng, Hưng Đạo Vương và cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên:
Thời nhà Lê
Lê Lợi bắt đầu cuộc khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa). Sau mười năm kháng chiến đã đánh bại quân Minh, giải phóng kinh đô Đông Quan và đổi tên thành Đông Kinh. Sau đó, trong triều đại Mạc, kinh đô được đổi tên trở lại thành Thăng Long vào năm 1527.
Thời kỳ Lê - Trịnh (1533 - 1786), Thăng Long được chia thành hai huyện là Thọ Xương và Quảng Đức, thuộc phủ Phụng Thiên.
Thời nhà Nguyễn
Năm 1802, Gia Long lập triều Nguyễn, đặt đô ở Phú Xuân (Huế). Thăng Long vẫn là thủ phủ của 11 trấn Bắc Thành, tuy nhiên, chữ "Long" được đổi thành chữ "Thịnh". Năm 1858, triều đình Nguyễn bán nước, nhường Hà Nội cho Pháp, khiến Thủ đô trở thành một thành phố thuộc Pháp trong suốt hơn nửa thế kỷ.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, vào ngày 2/9/1945 tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thế giới việc khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hà Nội trở thành Thủ đô của một nước độc lập.
Ý kiến đóng góp của bạn về trang web